NGUỒN
GỐC CÁC DÒNG HỌ Ở VIỆT NAM
Sau đây
là nguồn gốc các tên họ phổ biến nhất tại Việt Nam.
ÂU
=> Theo sách Đường Thư Tể Tướng Thế Hệ Biểu, Vô Cương chắt đời thứ 7 của Câu
Tiễn được ban cho đất ở núi Âu Dư Sơn để cai trị. Do vậy, một số cháu chắt Vô
Cương đã nhận họ Âu và chọn đất Bình Dương, tỉnh Thiểm Tây để cư ngụ, một số
khác nhận họ kép Âu Dương vì ở đó có ngọn núi Âu Dương. Dòng họ Âu Dương cư ngụ
tại 2 tỉnh Giang Tô và Sơn Đông.
BÙI
=> Theo sách Thông Chí Thị Tộc Lược, ông Bá Khôi, thời vua Đại Vũ nhà Hạ, được
ban cho đất ở làng Bùi. Con cháu ông Bá Khôi nhận tên làng Bùi làm tên họ. Dòng
họ Bùi ban đầu cư ngụ tại tỉnh Hà Đông, phía đông sông Hoàng Hà.
CAO
=> Theo Quảng Vận, đời Chu, con cháu của Kỷ Thái Công được ban cho nước Cao
để cai trị. Cháu chắt đã nhận tên nước Cao làm tên họ. Dòng họ Cao ban đầu cư
ngụ tại tỉnh Sơn Đông.
CHU
=> Thời xưa, nước Tàu có nước nhỏ gọi là Chu, do Thái Vương cai trị. Con là
Văn Vương nối nghiệp, nhận tên Chu làm tên họ nên gọi là Chu Văn Vương. Ban đầu,
dòng họ Chu cư ngụ tại Thiểm Tây, sau lan dần sang Hà Nam.
CUNG
=> Theo sách Tính Thị Khảo Lược do Trần Đình Vi viết vào đời nhà Thanh, Huy
là con thứ 5 của Hoàng Đế đã sáng chế ra cây cung nên được ban cho đất Trương để
cai trị. Con cháu đã nhận chữ Cung và Trương làm tên họ. Theo sách Vạn Tính Thống
Phổ, Thúc Cung làm quan đại phu nước Lỗ ở tỉnh Sơn Đông.Cháu chắt đã nhận chữ
Cung làm tên họ.Gia tộc họ Cung phát triển ở vùng Sơn Tây. Vào thời Nam Bắc Triều,
nhiều họ Cung đổi sang họ Trương để tránh bị bạc đãi.
QUAN
=> Theo sách Cổ Kim Tính Thị Biện Chứng, họ Quan do tên chức quan canh gác
cung điện nhà Chu. Quan Chí Cơ, giữ chức Đại Phu nước Ngu, là người đầu tiên nhận
họ Quan. Dòng họ Quan tập trung nhiều ở tỉnh Sơn Tây là nơi ngày xưa có nước
Ngu.
DOÃN
=> Ban đầu từ Doãn để chỉ bộ lạc cổ gọi là rợ Nhung.Khi người Nhung cư ngụ
trong lãnh thổ Hán, bị đồng hóa thì người Nhung đã nhận tên bộ tộc Doãn làm tên
họ.
DƯ
=> Theo sách Nguyên Hà Tính Toản của Lâm Bảo, viết vào đời Đường (618-907),
người sáng lập họ Dư là Do Dư làm quan đời nhà Tần. Con cháu nhận tên ông làm
tên họ. Trong Hán văn, hình dạng chữ Dư và chữ Xa rất giống nhau nên vào đời
nhà Đường, vì viết lầm họ Dư ra họ Xa, nên từ đó nước Tàu có thêm họ Xa.
DƯƠNG
=> Theo sách Danh Hiền Thị Tộc Ngôn Hành Loại Cảo, họ Dương là chi nhánh của
họ kép Dương Thiệt, và bắt đầu xuất hiện thời Xuân Thu- Chiến Quốc. Dòng tộc họ
Dương ban đầu cư ngụ tại Sơn Tây, sau di chuyển qua Thái Sơn tỉnh Sơn Đông.
ĐÀO
=> Họ Đào bắt nguồn từ chức quan gọi là Đào Chính.Đào Chính là chức quan
trông coi việc chế tạo đồ gốm cho cung điện nhà Chu. Người đầu tiên giữ chức
quan Đào Chính là ông Ngu, con cháu ông lấy từ Đào làm tên họ. Trong Hán tự,
đào có nghĩa là đồ gốm.
ĐẶNG
=> Theo Nguyên Hà Tính Toản, họ Đặng là chi nhánh của họ Mạn. Đặng là tên nước.
Cuối đời Thương, con cháu của Kim Thiên Thị được ban cho đất Đặng để cai trị.
Do vậy, cháu chắt đã nhận tên Đặng làm tên họ. Dòng họ Đặng cư ngụ tại Hà Nam
là nơi xưa kia có nước Đặng.
ĐINH
=>Họ Đinh rất phổ biến tại Trung Quốc, theo Vạn Tính Thống Phổ và Thông Chí
Thị Tộc Lược được viết vào đời Tống (960-1279), họ Đinh là chi nhánh của họ
Khương, thuộc dòng dõi Hoàng Đế. Vào đời nhà Chu, hậu duệ của Hoàng Đế nhận chữ
Đinh làm tên họ. Dòng tộc Đinh ban đầu cư ngụ tại tỉnh Sơn Đông.
ĐOÀN
=> Theo Nguyên Hà Tính Toản, Đoàn là tên của giống dân du mục mà người Hán gọi
là rợ Hồ. Khi họ định cư tại đất Hán vào đời hậu Chu (947-950), họ nhận tên
Đoàn làm tên họ. Theo sách Sử Ký Ngụy Thế Gia, họ Đoàn là chi nhánh của họ kép
Đoàn Can. Đoàn Can là tên ấp nằm trong nước Ngụy và ông tổ của dòng họ này là
Đoàn Can Mộc. Dòng họ Đoàn và Đoàn Can ban đầu cư ngụ tại Sơn Tây và Hồ Bắc là
nơi xưa kia có nước Ngụy.
ĐỖ, PHẠM
=> Theo Nguyên Hà Tính Toản và Lộ Sử, Lưu Luy thuộc dòng Đường Đế Nghiêu.
Lưu Luy lập ra nước Đường nay ở Sơn Tây và người ta thường gọi là Đường Đỗ Thị.
Vào triều đại nhà Chu, Chu Thành Vương chiếm nước Đường. Một người cháu Lưu Luy
được cấp đất Đỗ Thành ở Tây An tỉnh Thiểm Tây và được phong tước Đỗ Bá. Do vậy,
con cháu nhận tên Đỗ làm tên họ. Đất Đỗ Thành lại bị Chu Tuyên Vương chiếm và
con của Đỗ Bá là Đỗ Thấp Thúc chạy sang nước Tấn, được phong chức Sĩ Sư nên đổi
họ Đỗ thành họ Sĩ. Đến đời chắt của ông này là Sĩ Hội được ban cho đất Phạm, gọi
là Phạm Ấp để cai trị, nên đã đổi họ Sĩ ra họ Phạm. Dòng họ Phạm phát triển mạnh
tại tỉnh Sơn Tây.
GIANG
=> Theo Nguyên Hà Tính Toản, chắt vua Chuyên Húc là Bá Khôi được ban cho đất
Giang Lăng để cai trị. Vào thời Xuân Thu, nước Giang bị nước Sở thôn tính, cháu
chắt Bá Khôi đã chọn tên Giang làm tên họ để tưởng nhớ nước Giang.
GIÁP
=> Theo Phong Tục Thông, họ Giáp bắt nguồn từ họ kép Giáp Phụ và Giáp Phụ là
tên nước.
HÀ/HÀN
=> Theo Nguyên Hà Tính Toản, họ Hà có từ đời nhà Tần, là chi nhánh của họ
Hàn, thuộc dòng dõi Chu Văn Vương. Người lập nên họ Hà là Hàn An, sống ở nước
Hàn nay ở tỉnh Sơn Tây. Khi Tần Thủy Hoàng chiếm nước Hàn, Hàn An trốn sang
Giang Tô và đổi thành họ Hà. Dòng họ Hà sinh sống dọc theo sông Dương Tử và
sông Hoài chảy qua hai tỉnh Giang Tô và An Huy.
HOÀNG
=> Theo Nguyên Hà Tính Toản, Hoàng là tên đất. Chu Vũ Vương cho con cháu Lục
Chung đất Hoàng ở Hà Nam để cai trị. Nước Hoàng bị nước Sở Chiếm, con cháu Lục
Chung nhận từ Hoàng làm tên họ để tưởng nhớ nước Hoàng.
HỒ
=> Theo Nguyên Hà Tính Toản, họ Hồ thuộc dòng dõi Đế Thuấn, và người lập nên
họ Hồ là Hồ Công Mãn. Họ Hồ là chi nhánh của họ Trần. Hồ Công Mãn được Chu Vũ
Vương ban cho đất Trần để cai trị. Khi Hồ Công Mãn chết, con cháu lấy họ Hồ để
tưởng nhớ người sáng lập nước Trần. Dòng họ Hồ cư ngụ tại Hồ Bắc.
KHỔNG
=> Họ Khổng thuộc dòng dõi Hoàng Đế, theo Quảng Vận, họ Khổng là chi nhánh của
họ Tử. Con của Đế Cốc đã nhận chữ Tử làm tên họ. Đến đời vua Thành Thang
(1766-1753 TCN), một người chắt Đế Cốc được giữ chức Thái Ất. Do vậy, con cháu
đã phối hợp chữ Tử và Ất, tạo thành chữ Khổng để làm tên họ. Người đầu tiên nhận
họ Khổng là Khổng Phú Gia.
KHUẤT
=> Theo Thượng Hữu Lục và Vạn Tính Thống Phổ, Khuất là tên đất gọi là Khuất Ấp.
Con của Chu Vũ Vương được ban cho Khuất Ấp để cai trị. Cháu chắt đã nhận địa
danh Khuất làm tên họ. Dòng họ Khuất ban đầu cư ngụ tại Hà Nam.
KHÚC
=> Theo Vạn Tính Thống Phổ và Thông Chí Thị Tộc Lược, họ Khúc thuộc dòng dõi
Chu Văn Vương. Con của Mục Hầu nước Tấn được ban cho đất gọi là Khúc Ốc. Do vậy,
con cháu đã nhận họ Khúc. Dòng họ Khúc cư ngụ tại Thiểm Tây là nơi xưa kia có đất
Khúc.
KIỀU
=> Theo Nguyên Hà Tính Toản, và Vạn Tính Thống Phổ, họ Kiều là chi nhánh của
họ Cơ, thuộc dòng dõi Hoàng Ðế. Theo hai sách này, Hoàng Ðế chết, được chôn ở
núi Kiều Sơn nên con cháu nhận tên núi Kiều làm tên họ.Dòng dõi họ Kiều cư ngụ
tại Sơn Tây.
LẠI
=> Theo Tính Thị Khảo Lược, Lại là tên nước thời Xuân Thu.Người nước Lại lấy
tên nước làm tên họ.Dòng dõi họ Lại đầu tiên cư ngụ tại tỉnh Hà Nam.
LÂM
=> Theo Lộ Sử và Nguyên Hà Tính Toản, họ Lâm là chi nhánh họ Tử thuộc dòng
dõi vua Thành Thang.Người đầu tiên nhận họ Lâm là Tỷ Can. Tỷ Can bị Trụ Vương
giết, con Tỷ Can trốn vào rừng. Về sau Chu Vũ Vương ban cho con Tỷ Can đất Bá
Lăng, nay ở Hà Bắc và ban cho tên họ Lâm. Dòng họ Lâm ban đầu cư ngụ tại Hà Bắc,
sau lan sang Sơn Đông và Hà Nam.
LÊ
=> Có 2 tài liệu nói về họ Lê. Theo sách Phong Tục Thông, dưới triều vua Thiếu
Hạo (2598-2513 TCN), có nhóm quan gồm 9 người gọi là Cửu Lê. Con cháu các quan
này đã nhận chữ Lê làm tên họ. Theo Lộ Sử và Nguyên Hà Tính Toản, Lê là tên nước
đời nhà Thương. Khi nhà Thương bị diệt, nước Lê thuộc nhà Chu. Con cháu Đường Đế
Nghiêu được phong tước Lê Hầu. Do vậy con cháu đã lấy tên tước Lê làm tên họ.
Dòng họ Lê ban đầu cư ngụ tại Sơn Đông là nơi khi xưa có nước Lê.
LƯU
=> Họ Lưu thuộc dòng dõi Hoàng Đế. Theo sách Thông Chí Tính Tộc Lược, cháu
chắt của Đường Đế Nghiêu được ban cho đất Lưu, nay ở tỉnh Hà Bắc để cai trị.
Cháu chắt đã nhận tên đất Lưu làm tên họ. Nhưng theo sách Danh Hiền Thị Tộc
Ngôn Hành Loại Cảo, Lưu là tên huyện. Một người cháu chắt Chu Văn Vương làm
quan đại phu, được ban cho đất Lưu Ấp. Con cháu đã nhận tên đất Lưu làm tên họ.
LƯƠNG=>
Theo sách Danh Hiền Thị Tộc Ngôn Hành Loại Cảo, họ Lương thuộc thị tộc Doanh.
Con của Tần Trọng được ban cho đất Hạ Dương và được phong tước Lương Bá. Cháu
chắt Lương Bá nhận tên Lương làm tên họ. Một tài liệu khác cho rằng thời Bắc Ngụy,
vua Hiếu Văn Đế ra nhiều sắc lệnh cải cách xã hội Tàu, trong đó có lệnh bắt đổi
họ ba chữ Bạt Liệt Lan thành họ Lương.
LÝ
=> Theo Nguyên Hà Tính Toản, họ Lý (nghĩa: cây mận) là chi nhánh của họ Lý
(nghĩa: thớ thịt). Cả hai họ này có ông tổ chung là Chuyên Húc. Cửu Dao là cháu
Chuyên Húc giữ chức Lý Quan tức quan án nên Cửu Dao đổi sang họ Lý (nghĩa: thớ
thịt). Đến đời Thương, Lý Trưng phạm tội bị Trụ Vương đuổi khỏi nước và chết,
con là Lý Lợi Trinh sống sót nhờ ăn trái cây gọi là Mộc Tử. Để ghi nhớ sự kiện này,
ông ghép chữ Mộc và chữ Tử thành chữ Lý( nghĩa: cây mận) để làm tên họ. Dòng họ
Lý cư ngụ tại Hà Bắc.
MA
=> Có 2 tài liệu nói về họ Ma. Theo sách Phong Tục Thông, thì Ma Anh làm
quan đại phu nước Tề, con cháu nhận tên Ma làm tên họ. Theo sách Tính Thị Khảo
Lược, quan đại phu nước Sở được ban cho đất Ma gọi là Ma Ấp để cai trị. Cháu chắt
đã nhận chữ Ma làm tên họ. Dòng họ Ma cư ngụ tại Hà Bắc là nơi xưa kia có nước
Ma.
MÃ
=> Họ Mã rất phổ thông tại Trung Quốc và đặc biệt đa số người họ Mã theo Hồi
Giáo. Theo Nguyên Hà Tính Toản, họ Mã là chi nhánh của họ Doanh, thuộc dòng dõi
Chuyên Húc. Người sáng lập dòng họ Mã là Triệu Xa. Triệu Xa giữ chức Mã Phục
Quân là chức quan trông coi việc thuần thục ngựa cho kỵ binh thời Chiến Quốc.
Con cháu Triệu Xa đã nhận tên chức quan Mã làm tên họ. Dòng họ Mã cư ngụ tại
vùng Thiểm Tây.
MẠC
=> Theo Tính Thị Khảo Lược, Mạc là tên thành.Vua Chuyên Húc xây Mạc Thành.Cư
dân trong Mạc Thành đã lấy chữ Mạc làm tên họ. Dòng họ Mạc cư ngụ nhiều tại Hà
Bắc là nơi xưa kia đã xây Mạc Thành. Thuyết thứ hai cho rằng, họ Mạc là do tên
chức vụ công quyền: chức Mạc Ngao. Khuất Nguyên của nước Sở giữ chức vụ này nên
con cháu đã lấy chữ Mạc làm tên họ.
MAI
=> Theo Đường Thư Tể Tướng Thế Hệ Biểu, họ Mai là chi nhánh của họ Tử. Mai
là tên đất. Vào đờI nhà Thương, người anh của Thái Đinh được ban cho đất Mai và
được phong tước Mai Bá. Con cháu đã nhận tên đất Mai làm tên họ. Dòng họ Mai cư
ngụ tại Hà Nam.
NGHIÊM
=> Họ Nghiêm xuất phát từ họ Trang, thuộc dòng tộc Trang Vương nước Sở. Theo
Nguyên Hà Tính Toản, khi Trang Vương mất, con cháu đã nhận tên Trang làm tên họ.
Theo Tính Thị Khảo Lược, vì tránh tên húy của Hán Minh Đế nên ông Trang Quang
đã đổi sang họ Nghiêm. Từ đó nảy sinh dòng họ Nghiêm.Dòng họ này phát triển mạnh
tại tỉnh Chiết Giang.
NGÔ
=> Vào thời Xuân Thu-Chiến Quốc, phía nam sông Dương Tử là vùng Giang
Nam.Vùng này là lãnh thổ của nước Ngô. Theo Thông Chí Thị Tộc Lược, dân chúng
nước Ngô đã nhận tên Ngô làm tên họ. Dòng họ Ngô ban đầu cư ngụ tại tỉnh Giang
Tô là nơi có nước Ngô. Sau này, người họ Ngô cũng cư ngụ tại Chiết Giang và Sơn
Đông.
NGUYỄN
=> Theo hai tài liệu Nguyên Hà Tính Toản và Vạn Tính Thống Phổ, đời nhà
Thương có nước Nguyễn.Cư dân nước này nhận tên Nguyễn làm tên họ.Nhiều người
dòng họ Nguyễn cư ngụ tại tỉnh Hồ Nam.
NÔNG
=> Theo Vạn Tính Thống Phổ, họ Nông bắt nguồn từ Thần Nông Thị. Vua Thần
Nông dậy dân làm ruộng nên dân chúng nhận tên Nông làm tên họ.
ÔNG
=> Theo Nguyên Hà Tính Toản và Tính Thị Khảo Lược, họ Ông thuộc dòng Chu Văn
Vương. Con Chu Văn Vương là Chu Chiêu Vương được ban cho đất Ông để cai tri.
Con cháu đã nhận tên họ Ông. Tại đất Ông có ngọn núi tên là Ông Sơ Dòng họ Ông
cư ngụ tại Chiết Giang.
PHẠM Xem họ ĐỖ.
PHAN
=> Theo Nguyên Hà Tính Toản, họ Phan thuộc dòng tộc Chu Văn Vương. Chu Văn
Vương cho chắt của mình là Chu Chí Tôn vùng đất gọi là Phan Ấp để cai trị. Con
cháu Chí Tôn đã nhận tên Phan làm tên họ. Ban đầu dòng họ Phan cư ngụ tại Thiểm
Tây, sau lan ra An Huy và Chiết Giang.
PHÓ
=> Theo Danh Hiền Thị Tộc Ngôn Hành Loại Cảo, người sáng lập dòng họ Phó là
quan Thừa Tướng của vua Vũ Tính nhà Thương. Ông cư ngụ tại đất Phó Nghiễm, nay
là tỉnh Sơn Tây. Con cháu đã nhận tên Phó làm tên họ. Dòng họ Phó cư ngụ tại Hà
Bắc và Sơn Đông.
PHÙNG
=> Theo Nguyên Hà Tính Toản, họ Phùng thuộc dòng dõi Chu Văn Vương. Người
con thứ 15 của vua này là Tất Công Cao được ban cho đất Phùng, gọi là Phùng Ấp
để cai trị. Con cháu đã nhận tên Phùng làm tên họ. Dòng dõi họ Phùng cư ngụ tại
Hà Nam và Sơn Tây.
QUÁCH
=> Theo Tính Thị Khảo Lược, họ Quách có từ đời nhà Hạ. Thời nhà Hạ dân chúng
sống trong khu vực có tường lũy bao quanh gọi là Quách.Dân chúng lấy tên Quách
làm tên họ. Theo Nguyên Hà Tính Toản, họ Quách là chi nhánh của họ Cơ, thuộc
dòng dõi Hoàng Đế. Con thứ tư của Chu Văn Vương được ban cho đất Quách để cai
trị nên con cháu nhận tên Quách làm tên họ. Dòng họ Quách phát triển mạnh tại
Thái Nguyên, tỉnh Sơn Tây là nơi xưa kia có nước Quách.
SƠN
=> Theo Danh Hiền Thị Tộc Ngôn Hành Loại Cảo và Thông Chí Thị Tộc Lược, Sơn
là tên một chức quan đời nhà Chu gọi là Sơn Sư. Quan Sơn Sư trông coi việc thu
thuế lâm và ngư nghiệp. Con cháu nhận tên chức quan Sơn làm tên họ.
TẠ
=> Theo Nguyên Hà Tính Toản, họ Tạ là chi nhánh của họ Khương, thuộc dòng
dõi Viêm Đế. Tạ là tên nước. Thân Bá là anh em rể của Chu Tuyên Vương được ban
cho đất Tạ nên con cháu Thân Bá đã nhận tên Tạ làm tên họ. Đất Tạ nay ở tỉnh
Sơn Đông.
TĂNG
=> Theo Nguyên Hà Tính Toản, họ Tăng là chi nhánh của họ Từ, thuộc dòng dõi
vua Đại Vũ đời nhà Hạ. Khi Thiếu Khang hồi phục nhà Hạ, ông ban đất Khoái cho
con út của ông là Khúc Liệt để lập nên nước Khoái. Nước Khoái bị diệt, họ hàng
chạy sang nước Lỗ và để tưởng nhớ nước Khoái, con cháu đã lấy chữ Khoái nhưng bỏ
bớt ngữ căn Ấp để thành chữ Tăng làm tên họ. Dòng họ Tăng phát triển mạnh tại
Giang Tây, Phúc Kiến, Quảng Đông.
THÁI
=> Theo Tính Thị Tầm Nguyên, họ Thái là do họ kép Thái Thúc mà ra. Họ Thái
Thúc là chi nhánh của họ Cơ, thuộc dòng dõi Hoàng Đế. Người lập ra họ Thái Thúc
là Thái Thúc Nghĩa. Con cháu đã nhận Thái Thúc làm tên họ. Họ Thái Thúc ban đầu
ở Hà Nam, Hà Bắc, sau phát triển ở Sơn Đông.
THÂN
=> Theo Nguyên Hà Tính Toản, họ Thân là chi nhánh họ Khương, thuộc dòng tộc
Viêm Đế. Thân Lã được ban cho đất Thân để cai trị và được tước Thân Bá. Cháu chắt
Thân Lã đã nhận địa danh Thân làm tên họ.
TÔ
=> Theo Nguyên Hà Tính Toản, họ Tô thuộc dòng dõi Chuyên Húc. Đời nhà Hạ,
Côn Ngô được ban cho đất Tô Thành nên con cháu đã lấy họ Tô. Đầu tiên, họ Tô cư
ngụ tại Hà Nam. Sang đời Chu, họ rời về Cam Túc.
TÔN
=> Theo Nguyên Hà Tính Toản, họ Tôn bắt nguồn từ tên chức quan gọi là Tôn
Bá.Chức quan này trông coi việc tế tự trong triều đình nhà Chu. Con cháu đã nhận
tên chức quan làm tên họ. Họ Tôn cư ngụ tại phía đông sông Dương Tử, trong vùng
gọi là Hà Đông.
TỐNG
=> Theo Vạn Tính Thế Phổ, họ Tống là chi nhánh của họ Tử và Tống là địa danh
nước Tống. Chu Vũ Vương ban đất Tống cho Vi Tử Khải là con út của Đế Ất. Nước Tống
bị nước Sở chiếm.Dân nước Tống nhận tên Tống làm tên họ.Họ Tống cư ngụ tại tỉnh
Hà Nam.
TRẦN
=> Theo Thông Chí Thị Tộc Lược và Nguyên Hà Tính Toản, họ Trần là do tên nước
Trần. Chu Vũ Vương cho Quỳ Mãn hay còn gọi là Hồ Công Mãn đất Trần nay ở tỉnh
Hà Nam để cai trị. Mười thế hệ sau, cháu chắt Hồ Công Mãn bỏ đất Trần đi nơi
khác để tránh binh biến.Để tưởng nhớ đất cũ, họ đã nhận tên nước Trần làm tên họ.Dòng
dõi họ Trần cư ngụ nhiều tại tỉnh Hà Nam và Sơn Đông.
TRIỆU
=> Theo sách Bách Gia Tính xuất bản thời Bắc Tống, họ Triệu được con cháu đặt
ra để tưởng nhớ vị sáng lập triều đại Bắc Tống là Triệu Khuông Dận. Theo sách
Nguyên Hà Tính Toản, Triệu là tên vùng đất gọi là Triệu Thành. Đời nhà Chu, Tạo
Phủ được ban cho đất Triệu Thành nên đã nhận chữ Triệu làm tên họ. Dòng họ Triệu
cư ngụ tại Thái Nguyên tỉnh Sơn Tây
TRỊNH
=> Theo Nguyên Hà Tính Toản, Trịnh là tên nước. Đời vua Chu Tuyên Vương, Chu
Hữu được ban cho đất Trịnh. Con cháu nhận tên Trịnh làm họ. Dòng họ Trịnh cư ngụ
tại huyện Trịnh tỉnh Hà Nam.
TRƯƠNG
=> Theo Tính Thị Khảo Lược và Nguyên Hà Tính Toản, họ Trương thuộc dòng dõi
Hoàng Đế. Người con thứ 5 là Huy sáng chế ra cây cung. Muốn bắn cung phải
trương dây cung.Vì vậy, chữ Trương gồm 2 chữ Cung và Trường ghép lại.Một số
cháu chắt ông Huy lấy từ Cung, số khác lấy từ Trương làm tên họ.Dòng họ Trương
cư ngụ tại Thái Nguyên tỉnh Sơn Tây.
TỪ
=> Theo Nguyên Hà Tính Toản, ông tổ họ Từ là Bá Khôi.Bá Khôi là quan đại thần
của Đế Thuấn. Vua Đại Vũ nhà Hạ ban nước Từ cho con cháu Bá Khôi caitrị. Nước Từ
bị nước Sở chiếm nên cháu chắt Bá Khôi đã nhận tên Từ làm tên họ để tưởng nhớ
quê hương cũ.Dòng họ Từ cư ngụ tại tỉnh Hà Nam.
VĂN
=> Theo Phong Tục Thông, họ Văn thuộc dòng dõi Hoàng Đế. Sau khi Chu Văn
Vương chết, con cháu đã nhận chữ Văn làm tên họ.
VŨ/VÕ
=> Có 2 tài liệu về họ Vũ. Theo Nguyên Hà Tính Toản, họ Vũ là chi nhánh của
họ Cơ và người sáng lập dòng họ này là Cơ Vũ, con của Chu Bình Vương. Theo
Phong Tục Thống, họ Vũ thuộc dòng dõi Tống Vũ Công thời Xuân Thu. Con cháu đã
nhận tên Vũ làm họ để tưởng nhớ ông tổ Tống Vũ Công. Dòng họ Vũ cư ngụ tại Thái
Nguyên, Sơn Tây và Giang Tô.
VU
=> Họ Vương rất phổ thông tại Trung Quốc là chi nhánh của nhiều họ trước đây
là vua hay hoàng đế Trung Quốc. Theo Thông Chí Thị Tộc Lược, họ Vương là chi
nhánh của dòng tộc Chu Văn Vương. Vương Đạo là con cháu danh tiếng nhất của
dòng họ này. Tài liệu khác cho rằng họ Vương thuộc dòng họ Đế Thuấn. Dòng họ
Vương lan tràn khắp nước Tàu như Sơn Đông, Thái Nguyên, Hà Nam, Hà Bắc, Giang
Tô.
(Hoàng
Anh Văn sưu tầm)
Các dòng họ phổ biến ở Việt Nam
Phần lớn các họ phổ biến ở Việt Nam gắn liền với các triều đại phong kiến Việt Nam. Họ phổ biến nhất của người Việt là họ Nguyễn, theo một thống kê năm 2005 thì họ này chiếm tới khoảng 38% dân số Việt Nam[1]. Đây là họ của triều đại phong kiến Việt Nam cuối cùng, triều nhà Nguyễn. Các họ phổ biến khác như họ Trần, họ Lê, họ Lý cũng là họ của các hoàng tộc Việt Nam, đó là nhà Trần, nhà Tiền Lê - Hậu Lê và nhà Lý.
Sau đây là danh sách 14 họ phổ biến của người Việt, 14 họ này chiếm khoảng 90% dân số Việt Nam[1]
Khoảng 10% dân số Việt Nam còn lại có thể có các họ sau:
Sau đây là danh sách 14 họ phổ biến của người Việt, 14 họ này chiếm khoảng 90% dân số Việt Nam[1]
Họ | Tỷ lệ |
---|---|
Nguyễn | 38,4% |
Trần | 11% |
Lê | 9,5% |
Phạm | 7,1% |
Hoàng/Huỳnh | 5,1% |
Phan | 4,5% |
Vũ/Võ | 3,9% |
Đặng | 2,1% |
Bùi | 2% |
Đỗ | 1,4% |
Hồ | 1,3% |
Ngô | 1,3% |
Dương | 1% |
Lý | 0,5% |
Khoảng 10% dân số Việt Nam còn lại có thể có các họ sau:
Họ người Việt | Họ người Việt | Họ người Việt | Họ người Việt | Họ người Việt | Họ người Việt |
---|---|---|---|---|---|
An | Ân | Ánh | Âu | Ấu | Bá |
Bạch | Bàng | Bành | Bạc | Bảo | Bế |
Bửu | Biện | Cái | Cao | Cấn | Châu |
Chu | Chung | Cù | Ca | Cam | Cát |
Cầm | Chế | Chiêm | Chương | Chử | Cung |
Cự | Dã | Doãn | Đàm | Đan | Đào |
Đinh | Đoàn | Đậu | Giang | Hà | Hàn |
Hạp | Hình | Khổng | Lã | Lạc | Lâm |
Lô | Lục | Liễu | Lương | Lưu | Lều |
Ma | Mã | Mạc | Mai | Nhâm | Nhậm/Nhiệm |
Nghiêm | Nhữ | Ông | Phí | Phó | Phùng |
Tạ | Tào | Thái | Thân | Tôn | Tống |
Triệu | Trịnh | Trương | Văn | Vương | Viên |
No comments:
Post a Comment