nguồn:http://luutoc.vn/vi/?go=detail/6/11/2012/LHaF/News/cach-dung-bo-gia-pha-hoan-chinh.dhtml
Để giúp bạn đọc có thể tự mình thực hiện việc dựng một bộ gia phả hoàn chỉnh, chúng tôi giới thiệu cuốn sách "Cách dựng bộ gia phả hoàn chỉnh" do nhóm chuyên viên thuộc Trung tâm Nghiên cứu và Thực hành Gia phả TP.HCM biên soạn. Mong rằng cuốn sách sẽ ít nhiều giúp ích cho bạn đọc.
TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU VÀ THỰC HÀNH GIA PHẢ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
CÁCH DỰNG
BỘ GIA PHẢ
H O À N C H Ỉ N H
------------------------------
Các tác giả:
VÕ NGỌC AN
VÕ VĂN SỔ
PHAN KIM DUNG
NGUYỄN HỮU
TRẦN KIM XUYẾN
Nghiên cứu gia phả là khoa học
Thực hành gia phả là thiêng liêng
LỜI NÓI ĐẦU
Xuất phát từ việc nghiên cứu các bộ gia phả cổ, bỏ các quan điểm lỗi thời, đưa vào những quan điểm mới, tiến bộ cùng với những kinh nghiệm của 15 năm dựng phả cho các dòng họ, nhóm tác giả thuộc Trung tâm Nghiên cứu và Thực hành Gia phả thành phố Hồ Chí Minh đã đúc kết được những nguyên tắc cơ bản từ thực tiển đi dựng phả cho các dòng họ và từ cácbài giảng ở các lớp tập huấn về gia phả, làm rõ thêm các vấn đề gia đình - dòng họ; cùng với những kinh nghiệm thực tiển được chọn lọc để đưa vào sách.
Trong tập sách này, ban biên soạn đã đưa vào một phần nội dung của một bộ gia phả, cùng với hai bài viết có tính tham khảo nhằm khái quát các vấn đề về gia phả đối với nền văn hóa nước nhà.
Chúng tôi mong cuốn sách dễ đọc, dễ hiểu này sẽ đóng góp phần nào vào vốn hiểu biết của mọi người và giúp ích cho những ai đang muốn dựng bộ gia phả cho dòng họ mình.
Vì đây là lần đầu tiên chúng tôi biên soạn sách trong lĩnh vực nầy nên khó tránh khỏi những thiếu sót, khuyết điểm – mong được các bạn đọc góp ý.
Thân ái,
Nhóm tác giả.
PHẦN MỞ ĐẦU
GIA PHẢ ĐƠN GIẢN CÓ KHÁC VỚI GIA PHẢ HOÀN CHỈNH?
Gia phả giản đơn và gia phả hoàn chỉnh đều là lịch sử dòng họ, song loại thứ nhất viết đơn giản nhằm chỉ ghi sơ lược phần phả hệ, còn các phần khác rất quan trọng như phả ký, ngoại phả và phụ khảo thì không có, hoặc có thì chỉ ghi một cách đại khái, tóm lược. Gia phả hoàn chỉnh thì ghi kỷ, toàn diện, phản ánh đầy đủ, trung thực thực thể dòng họ.
Ta biết: Nước có sử, nhà có phả.
Lịch sử của đất nước ghi rõ từng thời kỳ với những con người, sự việc của nước nhà; còn gia phả tức sử của một dòng họ thì ghi những việc thuộc dòng họ ấy, bắt đầu từ ông / bà tổ phụ mẫu, người mà những người đang sống biết được, ghi đầy đủ về tổ quán của ông /bà tổ ấy cho đến ngày nay; ghi các thành viên (hậu duệ) của dòng họ, thứ thế (đời), ngày sanh, ngày mất, ghi hành trạng của họ; ghi phả đồ, ngoại phả và phụ khảo.
Đất nước trong giai đoạn không có sử gọi là huyền sử. Nhà không có phả gọi là huyền phả, tức tổ tiên, truyền thống dòng họ, con người, sự việc ở đây chỉ dựa vào ký ức và truyền khẩu, do vậy lâu ngày bị mai một. Có gia phả, mọi việc sẽ rõ ràng, chính xác, bền vững, khả năng lưu truyền mạnh mẽ, mau lẹ và đi xa hơn. Người “mất gốc”, không biết mình do ai sinh ra và gốc gác ở đâu, đây là hoàn cảnh đáng thương cô độc và quạnh quẽ. Người có gia phả sẽ tự tin, tự hào về truyền thống tốt đẹp, sáng lạng của dòng họ mình để củng cố niềm tin, vững bước đi lên trong mọi tình huống.
“Dân tộc Việt Nam là dân tộc anh hùng” trong đó bao hàm các dòng họ cũng là những dòng họ có những phẩm chất tốt đẹp; những cá nhân thoái hóa, biến chất, làm sai quấy thuộc về cá biệt.
Người Việt Nam ta có câu: “Không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời”, thực tế dựng gia phả lâu nay, chúng ta đều thấy câu nói trên là đúng! Có gia phả, con cháu sẽ nắm chắc ngày giỗ ông bà, không cưới gả với người trong họ, nắm rõ thứ thế để trong giao tiếp, việc thưa gởi, tôn ti sẽ rõ ràng.
PHẦN HAI
GIA ĐÌNH, DÒNG HỌ VÀ GIA PHẢ LÀ GÌ?
Gia đình:
Là một thiết chế xã hội gồm những thành viên khác giới thông qua hôn nhân mà có và qua gia đình để thực hiện các chức năng sinh đẻ, kinh tế, văn hóa, xã hội, tín ngưỡng …
Dòng họ là một thiết chế xã hội cổ truyền, gồm nhiều gia đình cùng huyết thống, có từ lâu ở nước ta. Họ của các dân tộc không giống nhau do điều kiện lịch sử, kinh tề, xã hội, tập quán khác nhau.
Khi có con cái thì các thành viên liên kết nhau bằng các quan hệ hôn nhân và di truyền, Hôn nhân là ngẫu nhiên, di truyền là tất yếu. Gia đình là một phạm trù lịch sử, thay đổi và phát triển cùng với sự phát triển của xã hội.
Về hôn nhân:
Quần hôn (cha mẹ chung) và hôn nhân cá thể. Có gia đình mẫu hệ, gia đình phụ hệ, tiểu gia đình (hai thế hệ) và đại gia đình (ba thế hệ trở lên). Tiểu gia dình vừa là đơn vị kinh tế vừa là tế bào xã hội.
Từ khi chuyển qua chế độ phụ quyền có sự bất bình đẳng nam nữ. Xã hội có giai cấp, sự bất bình đẳng nầy càng nặng nề, phụ nữ chịu nhiều thiệt thòi, và yêu cầu phải được giải phóng. Hiện nay có sự quan hệ tình dục không cần hôn nhân, không xây dựng gia đình, nguy cơ đồng tính luyến ái, bịnh AIDS, sinh con theo phương pháp “vô tính”, theo quan điểm chúng tôi, là vi phạm đạo đức.
Lành mạnh hóa gia đình gắn với lành mạnh hóa dòng họ, xây dựng gia đình văn hóa gắn với việc xây dựng dòng họ văn hóa. Kế hoạch hóa gia đình là một quốc sách.
Luât Hôn nhân và Gia đình (1986), luật Dân sự, luật Bảo vệ Trẻ em là những nguyên tắc cơ bản của việc xây dựng gia đình – dòng họ kiểu mới: “Tiến bộ - một vợ một chồng - nam nữ bình đẳng- bảo đảm hạnh phúc con cái”. Ta nêu thêm: “Kính trọng, tôn thờ tổ tiên và tạo phúc lâu dài!”
Dựng gia phả, phục hồi ngành gia phả là biện pháp tích cực góp phần xây dựng gia đình - dòng họ văn hóa, phải nâng nó lên cho đúng tầm với xã hội ngày nay.
Dòng họ:
Một ít dân tộc Việt Nam là theo họ mẹ, còn hầu hết theo họ cha. Người cùng một họ, có vị tổ chung gọi là “thần chủ tổ tiên”. Một ít trường hợp là sống tập trung, đa số các gia đình cư trú xen với các gia đình, dòng họ khác trong một xóm ấp. Đây cũng là tổ quán của dòng họ..
Dòng họ không phải là đơn vị kinh tế, tuy nhiên dòng họ có phần ruộng, gọi là ruộng hương hỏa, ruộng ky. Có nơi có nhà thờ họ chung. Người ba đời trong họ không được lấy nhau, (trừ triều Trần có tập tục nội hôn, cho lấy nhau để bảo vệ ngai vàng)
Dòng họ có nghĩa vụ đoàn kết, tương trợ nhau và có nghĩa vụ thờ phụng tổ tiên mình.
Họ tộc có nhiều Chi, Phái, Tiểu chi, có Trưởng họ. Người con trưởng của Chi trưởng làm trưởng họ, nếu chết, người con trưởng chi kế thay.
Mỗi họ có nhà thờ họ, nhà thờ chung gọi là từ đường, nhà thờ tổ. Họ lớn có nhiều chi, mỗi chi có nhà thờ chi. Cũng có nhiều họ không có nhà thờ. Hằng năm có một ngày giỗ tổ, thường gọi là ngày giỗ họ, giỗ tổ...
Mỗi họ có hoặc không có gia phả, tộc phả. Hiện nay đang có phong trào rất quí là đi tìm, kết nối nhận họ và dựng phả ở từng dòng họ, chi họ, với mục đích vĩnh tồn tôn thống, giáo dục truyền thống gia đình – dòng họ, Chúng ta kiến nghị với Nhà nước, ngành văn hóa, ủng hộ phong trào nầy một cách tích cực, mạnh mẽ hơn nữa..
Làm gia phả trước hết phải hiểu thấu đáo dòng họ.
Các họ ở Việt Nam hiện nay:
Chế, Lang, Man, Thiên, Ôn, Ông, Ma…gốc Chăm; Danh, Thạch, Sơn …gốc Campuchia; Duôn, Du, Dham, Nie từ Êdê. Hiện nay ta chưa có thống kê đầy đủ, song có thể nói có trên 300 họ của Việt Nam, hay hơn nữa.
Họ Việt Nam có từ thời cổ.
Việc đặt tên, chữ lót:
- Húy (tên đẻ): tên cha mẹ đặt để ghi vào sổ sách, gia phả, con cái không được gọi.
- Thụy (hèm): khi chết do vua đặt hoặc do người trước khi chết dặn đặt.
- Hiệu: tên riêng tự chọn.
- Tự: tên theo tập quán từng vùng. Tên tước do vua ban..
- Bí danh: do đi kháng chiến đặt.
Khái niệm gia phả là gì?
Gia phả là quyển sách, quyển tập ghi chép tên tuổi, kỷ sự (tiểu sử thu gọn), ghi ngày sanh, ngày tử, vị trí phần mộ và ngày lập mộ (đã chết)…của từng người trong họ, theo thứ tự các đời.
Từ điển Hán-Việt Đào Duy Anh định nghĩa gia phả là: “Sách ghi thế hệ trong họ và lịch sử tổ tiên”.
Gia phả xuất hiện ở phương Đông và phương Tây từ xưa. Trung Quốc: thời Chiến Quốc với quyển “Thế bản”. Thời Ngụy, thời Tần phát triển mạnh. Việt Nam: năm 1026, vua Lý Thái Tổ ra lịnh soạn Ngọc điệp (Phả Vua). Các tư gia, thế gia vọng tộc cũng biên soạn gia phả.
Nội dung gia phả gồm có:
Chính phả: có phả ký, phả hệ và phả đồ (nội dung nói ở phần sau).
Ngoại phả: ghi nhà thờ tổ, việc cúng bái, văn khấn, ghi khu mộ, ghi danh sách học vị các thành viên đỗ đạt, ghi tiểu sử một số thành viên nổi bật, ghi quan hệ hôn nhân cưới gả với dòng họ nào….
Phụ khảo: ghi địa chí xóm ấp, đình miếu, chợ búa, bến đò….
Nghiên cứu gia phả là khoa học, thực hành gia phả là thiêng liêng. Phải công phu, nghiêm túc trong việc dựng phả. Gia phả là tư liệu quí giá cho dòng họ, nhà sử học, dân tộc học.
PHẦN BA
BỐ CỤC HỢP LÝ CỦA BỘ GIA PHẢ
Biên soạn bộ gia phả được chia ra từng bước sau
● Cách đặt tựa và cách viết lời tựa: Không nên đặt tựa chữ Hán-Việt, cũng đừng đặt như “Võ tộc thế phả”. Tựa của quyển gia phả gồm hai phần chính: phần trên là tên dòng họ ta đang dựng, phần dưới là địa danh hành chánh đương thời, ghi kỷ từ ấp hoặc thôn, xã, huyện và tỉnh hoặc thành phố.
Thí dụ:
GIA PHẢ HỌ VÕ
Ấp 1, xã Phước Vĩnh An, huyện Củ Chi,
Thành phố. Hồ Chí Minh
Với tựa trên, người tìm sẽ dễ dàng, không lầm lẫn. Những tên xóm thôn trong quá trình lịch sử đã qua thì sẽ đưa vào phần phả ký.
● Bài nói đầu: Phần nhiều do dòng họ viết hoặc ta viết theo sự ủy nhiệm của dòng họ. Bắt đầu nêu mục đích, nguyên nhân, lý do ta làm phả; tiếp theo nêu diễn tiến quá trình thực hiện, cùng ai làm, làm và đạt kết quả các phần theo bố cục ra sao. Nêu ưu khuyết, kêu gọi lớp hậu duệ bổ cập. Lời cảm ơn, ngày tháng viết, và tên họ những người chủ trì. Câu văn cần súc tích, ngắn gọn.
Phần chính phả: Gồm phả ký, phả hệ và phả đồ.
Phả ký: Phả ký là lịch sử tổng hợp, toàn diện, chi tiết của dòng họ (thực tế là của một chi họ), viết theo lối viết sử, trong sáng, gãy gọn, dễ hiểu; cần nắm chắc các thuật ngữ chuyên ngành gia phả.
Lúc ghi chép cần tôn trọng hệ thống ký ức và truyền miêng của người trong họ. Mỗi họ, khi tiếp xúc sâu sẽ phát hiện được một vài người am hiểu, minh mẫn. Cách hỏi, cách phỏng vấn phải theo trình tự, hệ thống, từng loại việc, từng người. Phải tới từng chi, từng hộ để hỏi, quan sát.
Hệ thống mồ mả, bài vị, văn bản tương phân ruộng đất, sổ bộ đời, địa bạ, sách “Đăng Khoa Lục”, tự điển Nhân vật, các loại bằng khen, giấy khen, giấy chứng nhận “Mẹ Việt Nam anh hùng”… là nguồn bổ sung quí cho ta.
Phả ký là bài văn khó viết nhứt!
Bài phả ký phải đạt mục đích, yêu cầu:
Phải phản ánh toàn điện lịch sử dòng họ từ khởi thủy đến nay; xác định rõ tính ưu việt của dòng họ, đây là quan điểm đúng đắng và chỉ ra phương hướng xây dựng dòng họ văn hóa.
Do đó, để viết phả ký đầy đủ, cần phải đi thực tế (đi điền dã), trực tiếp khảo sát, sưu tra đầy đủ; liên hệ thật sâu từng thời kỳ lịch sử ứng với tùng đời trong họ; phải quán triệt quan điểm chức năng, nhiệm vụ gia đình xã hội chủ nghĩa, phải vận dụng kiến thức sẵn có; phải nhẫn nại, kiên trì, nghiêm túc, khi chấp bút, sau cùng là giọng văn trong sáng, dễ đọc…
Trong trường hợp dòng họ có gia phả gốc, viết bằng chữ Hán chắng hạn, ta dịch ra Quốc ngữ và đưa vào thành một phần của phả ký, sau đó là phần kế tục của các đời tiếp theo..
Nội dung họp lý gổm: Phần trên nêu nội dung, ý nghĩa, sự tác động của gia phả trong đời sống dòng họ; tiếp theo ta nêu sự phát tích dòng họ; vị tổ đời một, vị tổ khai cơ nêu tiểu sử và đây chính là người sản sinh ra dòng họ; tiếp theo nêu vị trí tổ quán với cách thức nêu tuần tự từ địa chí về xóm ấp, địa lý tự nhiên rồi nêu tiếp về lịch sử xóm ấp, lịch sử các dòng họ sống chung; rồi viết về đình, miếu…
Đi sâu hơn ta nêu gia đình – dòng họ là nơi “tái sản xuất ra con người”, nơi con cháu hậu duệ các đơời sinh ra, để duy trì dòng giống, nâng cao trí lực, thể lực, đảm bảo tái sản xuất cho lao động xã hội. Ở đây ta có dịp thống kê từng chi đã sanh ra bao nhiêu nam, nữ; đã tổ chức cưới gả bao nhiêu họ khác với hai qui luật cơ bản là hôn nhơn và di truyền..
Chức năng kinh tế và tổ chức đời sống cho từng gia đình trong họ: Thủơ ban sơ, các vị tiền hiền đến bám đất khai canh, trải qua các đời đã từng đảm đương kinh doanh các nghề ra sao.
Chúc năng giáo dục: Giáo dục tri thức, kinh nghiệm, đạo đức và lối sống, giáo dục nhân cách và thẩm mỹ, ý thức cộng đồng. Phương pháp giáo dục đa dạng, chủ yếu là nêu gương,, thuyết phục, lấy gia phong, gia đạo để giáo dục, tự giáo dục. Ta chú ý chủ thể là các bậc ông bà, cha mẹ
Chức năng thỏa mản nhu cầu tâm – sinh lý, tình cảm: Ở đây, những vấn đề về giới tính, về giới, về thế hệ, những sự mệt mõi trong lao động, những căng thẳng trong chiến đấu, những niềm vui cẩn sẻ chia. Gia đình – dòng họ là nơi có vai trò giải quyết, bằng vị thế hoặc ông bà, hoặc cha mẹ, hoặc anh chị, trong đó cần chú ý vai trò những bà mẹ.
Nhìn qua tổng thể dòng họ, chúng ta phải mô tả cho được vai trò của dòng họ trong lịch sử ở các khía cạnh: qua hôn nhân và di truyền đã sản sinh ra đời kế tiếp nối dõi tông đường, là dòng họ với truyền thống lao động, sản xuất, bám đất giữ làng, xây dựng sự nghiệp, là dòng họ yêu nước, yêu quê hương, là dòng họ với truyền thống văn hóa.
Tính chất, đặc điểm ưu việt của dòng họ: Đây là sự đánh gia khái quát những tính chất ưu việt các mặt đã nêu. Phải quan sát, khái quát một cách sắc bén, nêu đúng bản chất dòng họ. Có thể suy nghĩ và nêu sau cùng sau khi đã chiêm nhiệm dòng họ. Những nhược đểm, khiếm khuyết ta vẫn có thể nêu để rút kinh nghiệm trong họ, hoặc là chưa nêu chứ nguyên tắc không được làm sai lệch lịch sử dòng họ.
Sau cùng là nêu phương hướng xây dựng dòng họ văn hóa với những tiêu chí của Đảng và Nhà nước ta đã chỉ ra và truyền thống dòng họ Việt Nam đã xây dựng. “Dân giàu nước mạnh – Dòng họ trường tồn – Gia đình phúc đức” là mục tiêu tồn tại của dòng họ. Gia đình Việt Nam, trên cơ sở “quan hệ bình đẳng – thương yêu – có trách nhiệm – cùng chia sẻ công việc”:
● Phương pháp viết bài phả ký:
Sưu tầm tài liệu bắt đầu bằng một chuyến đi điền dã. Đây là công việc vất vả, phải đi xa và đi nhiều nơi trong dòng họ để hỏi, phỏng vấn, lấy thông tin trong các bậc lão thành hoặc người am hiểu trong họ về tiểu sử ông bà tổ, về nhà thờ tổ; khảo sát mồ mả, tìm hiểu di chúc, giấy tờ đất đai hương hỏa; quan sát địa lý xóm ấp, đình chùa, miếu mạo…
Phỏng vấn phải khéo léo, với hình thức linh hoạt vì hỏi không khéo người ta không nói, hỏi dồn dập người lớn tuổi bối rối quên mất. Có khi phải đi lại nhiều lần, vì không gặp đối tượng. Nói chung là phải kiên trì…
Sau chuyến đi điền dã, ta phải vào kho lưu trữ quốc gia, thư viên hoặc sở địa chính, tư pháp, công an…để có thêm tư liệu về đất đai, nhân thân, di chúc, hộ tịch.
● Tổng hợp và xử lý tư liệu, hoàn tất bài phả ký:
Sắp xếp tư liệu theo thứ tự thời gian và theo từng loại. Dùng phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh để sử dụng thông tin chính xác nhất. Cần giải quyết những mâu thuẫn trong lời kể.
Bắt đầu công việc chấp bút. Trước tiên ta lập đề cương, dàn bài chi tiết (như trên), rồi dùng thể văn trần thuật, tường thuật, miêu tả, phân tích và phải cân nhắc xoáy vào trọng tâm, không để lạc đề, không cương điệu, ca ngợi quá sự thật; tôn trọng tính khoa học nhưng không đi sâu nghiên cứu làm bài viết khô khan, ngán đọc
Các mặt tích cực và nhược điểm của gia đình phải được tôn trọng, chưa nói chứ không được nói khác đi. Với bài phả ký đòi hỏi trình độ hiểu biết về lịch sử, địa lý, dân tộc học của người đi dựng phả.
● Cách thực hiện phả hệ và phả đồ:
Phả hệ là một nội dung chính của bộ gia phả, được sắp xếp sau phần phả ký, trong đó ghi tất cả bà con dòng họ (nội) của gia phả tùy theo thực tế tìm hiểu về trực hệ và bàng hệ dòng họ. Tôn trọng nguyên tắc “đích thứ – trên dưới”. Trình bày theo chiều ngang, chiều dọc hoặc kết hợp chiều ngang và chiều dọc. Ở mỗi chiều, chi trưởng, đời thứ nhứt, con cả ghi trước, chi kế, đời kế, con kế ghi sau cho tới đời hiện nay. Cũng giống như việc ghi chép lịch sử, phả hệ phải trung thực, khách quan, toàn diện gồm khung tên họ, kỷ sự (tiểu sử) và các con.
- Phương pháp theo chiều ngang: Là trình bày cá nhân thành viên dòng họ theo từng đời, hết đời 1 sang đời 2, đời 3, cho đến đời hiện tại. Ưu điểm của phương pháp là giúp ta định vị được cá nhân thành viên trong dòng họ thuộc đời nào một cách dễ dàng để từ đó nhận ra vai vế của từng người. Tuy nhiên gia phả với qui mô lớn, phương pháp nầy khó theo dõi để nắm chi tiết từng chi, nhánh, hệ nào đó của gia phả.. Vì vậy, phương pháp nầy chỉ phù hợp với gia phả có qui mô nhỏ (ít đời, tổ đời 1 sinh ít con)
- Phương pháp theo chiều dọc: Là phương pháp trình bày một cá nhân thành viên và tiếp theo đó là con cái trực hệ của họ. Thí dụ ông A có 3 con là B1, B2và B3, về B1 ông nầy có có con là C1, C2 và C3, kế tiếp ghi về ông C1 có các con là D1, D2, D3…cho đến cuối. Phương pháp nầy có hiệu quả khi cá nhân từng đời ít con cái (cá nhân đông con, phương pháp nầy sẽ tạo ra manh múng).
- Phương pháp tổng hợp: Kết hợp cách trình bảy ngang và dọc. Đây là sự cắt dọc phả hệ ra thành từng phần nhỏ, ở phần nhỏ ta trình bày chúng theo chiều ngang. Những gia phả qui mô lớn, bố cục nội dung theo từng cụm, rất dễ theo dõi.
Có thể đưa ra mẫu cấu trúc cơ bản của phả hệ, mẫu nầy áp dụng cho cả ba phương pháp (xem mẫu trình bày sau). Cấu trúc mẫu nầy tuần tự như sau: tiêu đề phụ là dòng chữ ĐỜI I (hoặc II, III); tiêu đề chính là dòng chữ: CÁC CON ÔNG….VÀ BÀ….
Tiếp theo là những người con của ông bà như đã nêu ở tiêu đề chính, mỗi người được đặt trong khung hình chữ nhật (là độc thân), hoặc trong hình chữ nhật được ngăn làm hai (là người có gia đình).
Theo qui định, ở phía tay trái là ô để ghi người con của ông bà đó (là người của dòng họ và ở phía tay phải để ghi vợ hoặc chồng của người có tên ở ô tay trái.
Nội dung trong từng ô nầy với những loại thông tin giống nhau, mỗi thông tin được ghi một dòng gồm: họ và tên, năm sanh và năm mất (nếu đã qua đời), ngày giỗ (tất cả lấy ngày âm lịch), mộ (với người qua đời). Ví dụ:
|
Theo http://giaphatphcm.com
Tôi thấy rất hay và công phu đấy ạ
ReplyDeleteCảm ơn bạn!
ReplyDelete