Các dòng họ ở Bắc Giang
Hiện
nay ở Bắc Giang có các họ Dương, Đỗ, Đồng, Đinh, Chu, Cao, Biện, Giáp,
Khổng, Lê, Mai, Nguyễn, Phí, Ông, Ong, Trương, Trịnh, Trần, Thôn, Vũ,
Vi, Phùng, Ngọ, Phương, Lều, Thạch, Bạch, Vương, Hoàng, Sầm, Quách,
Ninh, Lã, Ngô, Lưu, Hà, Lý, Khuất, Tạ, Đào, Phạm, Phan, Bùi, Phó, Đoàn,
Lương, Hồ, Nông, Âu, Hoắc, La, Kiều, Cáp, Diêm, Tô, Tống, Yên...
Trước
thế kỷ X các dòng họ ở Bắc Giang chưa được ghi trong sách chính sử. Do
đó không rõ thời ấy có những họ nào đã cư trú ở Bắc Giang. Tài liệu dã
sử như Thần tích, Thánh tích ở các địa phương có cho biết một số họ đã
sống ở Bắc Giang như họ Thạch trong tích Thạch Linh thần tướng, họ Hùng ở
Thù Sơn (Hiệp Hoà); họ Diên, họ Ngọ, họ Dương có các vị nữ tướng của
Hai Bà Trưng đóng quân ở Đông Lâm (Hiệp Hoà), Vân Sơn (Yên Dũng), Nhã
Nam (Tân Yên), họ Trương ở Mai Thượng (Hiệp Hoà)... Các truyền tích ấy
đều do người đời sau hư truyền, thực giả không rõ nên chỉ có ý nghĩa
tham khảo.
Từ
thế kỷ X trở đi, trong chính sử đã xuất hiện các nhân vật và sự kiện
liên quan đến vấn đề các dòng họ ở Bắc Giang : Trong mỗi thế kỷ lại xuất
hiện một vài họ có người hiền tài và những nhân vật lịch sử hay các
danh nhân khoa bảng...
Dòng
họ ở Bắc Giang có họ gốc và họ di cư ở nơi khác tới cư trú, nhưng các
dòng họ đều hoà hợp, thương yêu, đoàn kết với nhau để cùng tồn tại. Cơ
cấu tổ chức các dòng họ ở Bắc Giang không chặt chẽ, mà đơn giản hơn
nhiều nơi. Trong họ không có các điều lệ quy định khắt khe đối với các
thành viên, ngoài những tiết lệ giỗ tổ.
Trong
nghiên cứu về dòng họ, hai loại tài liệu xác thực nhất là nhà thờ họ và
gia phả. Các họ lớn ở Bắc Giang có nhà thờ họ không nhiều. Số gia phả
dòng họ còn lại rất ít. Nhiều họ do điều kiện xưa ít học, bận mưu sinh
nên không có gia phả. Nhưng cư dân ở các tỉnh khác về Bắc Giang cư trú,
có một số gia đình mang theo bản sao gia phả dòng họ để giữ lấy gốc.
Cũng có những quyển gia phả của một số họ viết khá rõ. Chẳng hạn, người
Sán Dìu lập gia phả từng nhà, từng chi, gia phả viết tên đệm gồm 9 chữ
khác nhau tượng trưng cho 9 đời rồi quay lại chữ đầu. Để nhận nhau là họ
hàng, anh em, người ta còn có lối in dấu “hợp phù”. Nghĩa là gấp tờ đầu
của hai quyển gia phả lại, khớp hai nửa giấy vào nhau thành một trang.
Sau đó đem dấu của gia đình úp mực in lên. Mỗi quyển gia phả có một nửa
dấu. Không may các đời sau lưu lạc đi xa, theo 2 nửa dấu đó mà nhận họ
hàng. Còn gia phả của người Sán Chí tuy có ghi các bậc nam, bậc nữ,
nhưng con gái thì gọi là “Múc” (tương đương với từ Cô trong tiếng Việt).
Căn
cứ vào các nguồn tài liệu trong sử sách và các bản gia phả có được, xin
trình bày tóm tắt về nguồn gốc, địa bàn cư trú và những nhân vật tiêu
biểu của một số dòng họ ở Bắc Giang trong lịch sử. Do không có đủ tài
liệu nên còn nhiều họ chưa được giới thiệu trong dịp này. Rất mong được
sự thông cảm và cộng tác của các họ để lần tái bản sách Địa chí Bắc
Giang, sẽ có thêm thông tin về nhiều họ khác và về bản thân những họ đã
được giới thiệu lần này, nhưng chưa đầy đủ.
Họ Chu
Họ Chu cư trú ở Bắc Giang đã lâu đời. Nơi cư trú của họ từ thời xa xưa còn để lại địa danh “Chu Xá” ở Quang Châu và một vài nơi.
Trong số các dòng họ Chu sống ở Bắc Giang, tiêu biểu là Chu Danh, Chu Bá, Chu Văn, Chu Thế.
Dòng
họ Chu Danh cư trú ở Mật Ninh (Yên Dũng) có Chu Danh Tể, 23 tuổi thi đỗ
Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân (1676), được bổ làm quan đến chức Đề
hình giám sát ngự sử, Đốc trấn Cao Bằng. Sau đó con em họ Chu ở Mật
Ninh cũng có nhiều người tham gia vào các hoạt động xã hội như Chu Bá
Phượng, Chu Thế Độ...
Họ
Chu ở Lục Nam vốn là họ Vũ gốc ở xã Kỳ Lão, huyện Nam Chân (nay thuộc
Nam Định) lên cư trú từ thời Lê - Mạc. Dòng họ Chu này có Chu Văn Sầm
được phong tước công, tức Sầm quận công. Các con cháu đều được triều
đình trọng dụng, cân nhắc cho làm việc nước.
Họ Dương
Họ
Dương khá phổ biến ở Bắc Giang. Sống tập trung, đông và có tiếng là
những họ Dương ở các xã Vân Trung, Song Vân, An Dương... của hai huyện
Tân Yên và Việt Yên.
Họ
Dương ở thôn Bài Cả, xã Vân Cốc, huyện Yên Dũng xưa có Dương tướng
công, từng làm quan những năm 1750-1772, trải các chức Tiền đặc tiến phụ
quốc thượng tướng quân, Đô chỉ huy sứ, tước Hiển quận công.
Họ
Dương ở Cầu Vồng, xã Song Vân (Tân Yên) là một dòng họ lớn, có danh
tiếng trong thời Lê - Mạc. Dòng họ Dương ở đây có nhiều người tài giỏi,
thượng võ, có 18 quận công nổi tiếng trong dã sử. Tiêu biểu là ba anh
Dương Quốc Công, Dương Hùng Lượng và Dương Quốc Nghĩa. Tinh thần thượng
võ của các vị đã làm cho vùng đất Yên Thế vốn đã nổi tiếng lại nổi tiếng
hơn. Nỏ Yên Thế là loại nỏ bắn tên thuốc độc, cứng, mạnh. Bắn trúng
chảy máu chết ngay, đã được Nguyễn Trãi ghi trong sách Dư địa chí. Anh
em họ Dương là những tay thiện sạ về cung, nỏ. Thời này, hội Lim là hội
được tổ chức lớn. Con gái làng Lim giỏi làm ăn buôn bán, lại hát Quan họ
hay. Trai Cầu Vồng (Yên Thế) giỏi, xứng với gái làng Lim nên đã có câu
ca : Trai Cầu Vồng Yên Thế, Gái Nội Duệ Cầu Lim. Làng Cầu Vồng, xã Vân
Cầu là làng gốc của họ Dương, sau đó phát triển ra các nơi ở Yên Thế như
Ngô Xá, An Dương đều là những nơi có nhà thờ các vị tổ ấy.
Họ
Dương ở Dương Lâm có cụ quận Dương Đình Bột, uy thế rất lớn; có Dương
Đình Tuấn từng phù giúp Lê Chiêu Thống long đong lận đận khắp vùng Kinh
Bắc, Yên Thế. Tuy có lỗi nhưng sau cũng được triều Nguyễn coi như là một
vị trung thần tiết nghĩa.
Họ
Dương ở vùng Yên Thế có Dương Thận Huy người xã Lan Giới đỗ Đệ tam giáp
đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Canh Tuất niên hiệu Cảnh Lịch thứ 3 (1550)
làm quan đến chức Thừa Chánh sứ. Dòng họ này ngày nay không ai rõ con
cháu cư trú ở nơi nào. Thời kỳ nhà Nguyễn có Dương Văn Cán, quê ở làng
Giã (Mục Sơn) khởi nghĩa, đã gây cho triều đình nhiều tổn thất. Ở làng
Chũng (Nhã Nam) có Dương Văn Truật (tức Đề Truật) nổi lên chống Thanh
phỉ, rồi tham gia khởi nghĩa Yên Thế. Thời kỳ kháng chiến chống Pháp
(1945-1954) có Dương Văn Hội là Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
Họ Đào
Họ
Đào cũng là một trong những họ có mặt ở Bắc Giang từ lâu đời. Theo tài
liệu về tổ nghề gốm Thổ Hà thì Đào Trí Tiến là tổ nghề gốm nơi đây. Ông
sinh ra và lớn lên ở thời Lý, đi sứ nhà Tống, học được cách làm gốm về
truyền cho dân.
Họ
Đào của Song Khê vào giữa thế kỷ XVI có Đào Toàn Mân đỗ Tiến sĩ năm
1352, niên hiệu Thiệu Phong thứ 12, được phong chức Tri tham hình viện
sự ở Phủ Thiên Trường và có dinh thự ở đó. Tuy vậy khi mất thi hài của
ông lại được con ông là Trạng nguyên Đào Sư Tích đưa về Song Khê chôn
cất ở Bãi Trạng, Lịm Xuyên. Về sau con cháu họ Đào vẫn cư trú tại Song
Khê. Dòng họ Đào này song song
tồn tại với họ Đào ở Thiên Trường (Nam Định). Cả hai nơi đều thờ phụng
hai vị đại khoa này. Ở Song khê thờ Đào Toàn Mân, ở Nam Chân thì thờ Đào
Sư Tích. Đương thời hai cha con Đào Toàn Mân được làm quan cùng triều.
Năm 1381, tháng 5 vua cho Đào Sư Tích làm Nhập nội hành khiển ty lang
trung. Toàn Bân (Mân) cha Sư Tích, làm Tri thẩm hình viện.
Các họ Đào ở Bắc Giang cư trú trên khắp các huyện, thị nhưng số lượng không nhiều, không tập trung.<O:p</O:p
Họ Đoàn
Trong
năm 1384, tháng 2 vua mở khoa thi Thái học sinh ở chùa Vạn Phúc, núi
Tiên Du. Trong khoa thi này, Đoàn Xuân Lôi đã đỗ đầu. Đoàn Xuân Lôi là
người họ Đoàn ở Trâu Lỗ (xã Mai Đình, Hiệp Hoà ngày nay). Dòng họ này
vốn quê cha đất tổ ở Thanh Hoá, di cư ra Bắc rồi cư trú ở Trâu Lỗ. Đến
đời Xuân Lôi thì phát Trạng. Về việc này tấm bia ghi chép về Đoàn Xuân
Lôi ở Trâu Lỗ (xã Mai Đình) có chép :
“Ông họ Đoàn, tên huý là Xuân Lôi. Bản quán ở đất Thanh Hoá. Cha ông đến cư trú ở Trâu Lỗ đã mấy đời”.
Đoàn
Xuân Lôi làm quan tới chức Quốc tử trợ giáo. Khi Hồ Quý Ly soạn sách
Minh Đạo gồm 14 thiên dâng lên vua, bàn một số việc của các bậc tiên
thánh. Vua ban chiếu dụ khen. Xuân Lôi có bàn với Đào Sư Tích cho rằng
Hồ Quý Ly như thế là không phải, lạm dụng người xưa mà mưu việc riêng
mình. Vì việc ấy mà Xuân Lôi bị đày đi xa xứ, mất ở đó. Sau đem về Trâu
Lỗ cát táng, mộ nay vẫn còn. Song con cháu họ Đoàn này hiện nay không
biết di cư đi đâu.
Họ Đỗ
<O:pCác
họ Đỗ ở Bắc Giang có nguồn gốc khác nhau, cư trú ở hầu hết các huyện
thị, nhưng nổi danh có bốn họ : Đỗ, Đỗ Công, Đỗ Đồng, Đỗ Văn...
Họ Đỗ ở Hoàng Mai có Đỗ Hoảng 23 tuổi thi đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Ất Sửu niên hiệu Đoan Khánh 1 (1505).
Họ
Đỗ Văn ở Yên Ninh (Việt Yên) có Đỗ Văn Quýnh độ Đệ tam giáp đồng Tiến
sĩ xuất thân khoa Canh Thìn niên hiệu Quang Thuận 5 (1520) đời Lê Chiêu
Tông, làm quan đến chức Thừa chánh sứ, Quốc tử giám tư nghiệp.
Họ
Đỗ ở xã Quảng Minh, huyện Việt Yên có Đỗ Đồng Dần thi đỗ Đồng Tiến sĩ
khoa Giáp Thìn niên hiệu Quảng Hoà (1544), làm quan đến chức Đoán sự.
Dưới
thời Lê Trung hưng, họ Đỗ ở thôn Khoát, xã Lỗ Hạnh (nay là thôn Đông
Lỗ, Hiệp Hoà) từng giữ chức Thị nội thư, Tả hộ phiên, Hình phiên, Thị
nội giám, Tư lễ giám... gia tặng Đề đốc phủ, Hữu đô đốc, tước Chân quận
công.
Họ Giáp
Địa
vực cư trú của họ Giáp rất rộng. Các dòng họ Giáp cư trú đông ở Việt
Yên, Tân Yên, Lạng Giang, Lục Nam, Lục Ngạn, thành phố Bắc Giang và một
vài nơi ở huyện Yên Dũng. Đó là vùng đất thuộc lưu vực sông Lục Nam và
sông Thương.
Họ
Giáp có mặt ở Bắc Giang lâu đời nhất. Các tài liệu thư tịch cổ đã xác
nhận họ Giáp có từ thời Lý (TK XI), khi ấy vùng đất này thuộc châu Lạng.
Tù trưởng Động Giáp - một trong các đơn vị hành
chính
lúc ấy là Giáp Thừa Quý. Giáp Thừa Quý được vua Lý gả công chúa cho làm
phò mã. Từ Giáp Thừa Quý trở đi họ Giáp này lại đổi ra họ Thân và cùng
nối nhau làm tù trưởng và làm phò mã.
Khi
nhà Minh kéo quân sang xâm lược nước ta, chi họ Giáp ở Dĩnh Kế, huyện
Phượng Nhỡn không chịu theo nhà Minh, đã đem con cháu di cư về vùng
Thiết Thượng (thuộc huyện Yên Dũng), sau đó cũng thành hào trưởng ở vùng
này. Khi đất nước bình yên, con cháu mới trở về quê cũ. Dòng họ Giáp
này đến thời Lê - Mạc TK XVI thì phát Trạng.
Cuốn
Sách đá mới được phát hiện năm 1996 trong mộ cụ Khánh Sơn (cụ thân sinh
ra Trạng nguyên Giáp Hải), được xem như một cuốn gia phả đầu tiên của
Bắc Giang.
Qua
cuốn Sách đá, họ Giáp ở Dĩnh Kế được kể rõ nguồn gốc cho tới phát tích.
Cuốn gia phả này đã cho thấy một điều là vị Trạng nguyên Giáp Hải không
phải là con nuôi của “thương nhân ở Kế” như đời sau lầm tưởng. Tổ tiên
của Giáp Hải không đi buôn và cũng không xin con nuôi. Giáp Hải là con
đích dòng của cụ Khánh Sơn tiên sinh. Bức màn sương mù che phủ lên lai
lịch Giáp Hải (Giáp Trưng) bao nhiêu năm đã được hé mở khi tấm bia hộp
Sách đã được phát hiện năm 1996.
Phân
chi của họ Giáp ở Yên Thế cũng nổi danh với các nhân vật lịch sử như
Giáp Đình Liêu, Giáp Đăng Luân, Giáp Sùng, Giáp Trinh Tường. Chi họ Giáp
ở làng Um có Giáp Văn Thú, người đời thường gọi là quan Phán Thú. Các
vị đó hầu hết đều là các nhân vật của thời Lê (TK XV-XVIII).
Thời
Nguyễn có Giáp Văn Trận ở Ngọc Lý nổi lên chống lại triều đình. Sau đó
lại có Giáp Văn Cờ đi theo Hoàng Hoa Thám chống thực dân Pháp.
Trong
kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ (1945-1975) có Giáp Văn Khương nổi
danh trong trận đánh chùa Non Nước (Ninh Bình); có tướng Giáp Văn Cương,
người xã Vô Tranh (Lục Nam) và rất nhiều vị là sĩ quan cao cấp trong
quân đội nhân dân Việt Nam.
Mấy năm gần đây, các dòng họ Giáp đang sưu tầm tư liệu để tìm ra mối liên hệ giữa các dòng họ Giáp với nhau.
Họ Hà
Ở
Bắc Giang có các họ Hà Văn, Hà Ngọc, Hà Quốc, Hà Công... cư trú ở các
huyện Tân Yên, Yên Thế, Yên Dũng, Lạng Giang, Lục Nam... và một số nơi
khác.
Người
họ Hà được ghi nhận sớm trong lịch sử làng, xã ở Bắc Giang là Hà Chiếu.
Hà Chiếu quê gốc ở Hải Dương, theo cha lên Nghĩa Phương (Lục Nam) lập
nghiệp từ thời Lý, đỗ thái học sinh, được giữ chức Hàn lâm học sĩ, sau
được cử đi sứ, trở về được phong tước Thắng địch hầu. Đến nay, không rõ
dòng họ này phiêu bạt về đâu.
Đến
thời Lê Trung hưng, có Khánh quận công Hà Công Dong vốn tổ tiên là
người ở tổng Chu Túc (châu Điềm He, Lạng Sơn), đến đời Hà Công Dong thì
xuống Kinh Bắc cư trú và lấy vợ người họ Hoàng (Mỹ Độ nay). Ông ta đem
tiền của giúp dân ở Lũ Phú, Lịm Xuyên (Yên Dũng) làm đình và cấp cho dân
ruộng đất nên được làm thần thờ ở hai nơi đó. Tuy cùng họ Hà nhưng
không phải các họ Hà khác ở Tân Yên, Lạng Giang, Yên Thế... đều có quan
hệ huyết tộc với nhau. Các họ Hà ấy có nguồn gốc khác nhau : có họ gốc
Tày, có họ gốc Việt. Hà Công Dong gốc Việt nhưng đã bị Tày hoá.
Ở
Lạng Giang (vùng Xuân Hương) cũng có họ Hà Quốc cư trú. Chưa rõ nguồn
gốc ra sao nhưng đây cũng là dòng họ có con em tham gia tích cực vào các
hoạt động xã hội.
Ở Yên Thế có họ Hà Văn và họ Hà Quốc. Họ Hà Văn là người của dân tộc Nùng từ Lạng Sơn di cư về
cư
trú ở Đồng Kỳ. Họ Hà Quốc là người của dân tộc Tày, gốc ở châu Văn
Uyên, tỉnh Lạng Sơn di cư về đất An Thượng từ thời kỳ khởi nghĩa Yên
Thế. Dòng họ này có các ngành Hà Quốc, Hà Văn, Hà Ngọc, trong đó Hà Quốc
là ngành trưởng. Họ Hà Quốc cũng là họ có con em tích cực tham gia vào
công tác hội.
Họ Hoàng
Họ Hoàng khá phổ biến ở Bắc Giang, song nguồn gốc rất khó xác định.
Họ
Hoàng ở Hiệp Hoà có Hoàng Sầm người xã Thù Sơn đỗ Hội nguyên, được ban
Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ đệ tam danh (Thám hoa) khoa Mậu Tuất niên
hiệu Đại Chính 9 (1538) đời Mạc Đăng Doanh. Làm quan đến chức Lễ bộ Tả
thị lang, tước Hoàng Phúc bá.
Họ
Hoàng ở Yên Ninh có Hoàng Công Phụ (1567-1644) đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến
sĩ xuất thân khoa Kỷ Mùi niên hiệu Hoằng Định 20 (1619) đời Lê Kính
Tông. Năm Đức Long (1630) được cử đi sứ nhà Minh. Làm quan đến chức Binh
bộ Tả thị lang, tước Thọ Nham hầu, khi mất được tặng Thường thư.
Họ
Hoàng ở Tân Mỹ (Yên Dũng) có Hoàng Ngũ Phúc, Hoàng Đình Bảo. Cả hai
nhân vật này nổi tiếng trong thế kỷ XVIII thời vua Lê, chúa Trịnh.
Họ
Hoàng ở Mỹ Độ (TP Bắc Giang) có cụ tổ là bậc công thần thời Lê - Mạc.
Từ đó mà có các nhân vật Tài quận công, Hoa quận công, Hoàng Đình Quán,
Hoàng Đình Phú... có công với triều Lê, đến nay vẫn còn sắc phong.
Nhìn trên đại thể, họ Hoàng cư trú ở Bắc Giang khá ổn định và thời nào cũng có những nhân vật xuất sắc.
Họ Ngọ
<O:p
Họ
Ngọ căn bản cư trú ở đất Hiệp Hoà. Dòng họ này sống tập trung ở xã Thái
Sơn và xã Châu Minh. Địa vực cư trú ban đầu của họ Ngọ là “Ngọ Xá” (nay
thuộc xã Châu Minh). Xưa địa danh này được gắn với đơn vị hành chính
của xã, tổng : xã Ngọ Xá, tổng Ngọ Xá của huyện Việt Yên, phủ Bắc Hà,
trấn Kinh Bắc. Trong quá trình cư trú, họ Ngọ có lẽ đã phát triển sang
đất Quế Trạo, tổng Quế Trạo.
Họ
Ngọ ở đất Ngọ Xá có ông Ngọ Doãn Trù đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất
thân khoa Mậu Dần niên hiệu Quang Thiệu 3 (1518) đời Lê Chiêu Tông, từng
làm quan đến chức Đoán sự.
Họ
Ngọ ở thôn Thái Thọ, nay thuộc xã Thái Sơn (Hiệp Hoà) có Ngọ Công Quế,
Trấn thủ cai quản xứ Thái Nguyên, được phong Đặc tiến phụ quốc thượng
tướng quân, Tư lễ giám, Tổng thái giám, Bắc quân đô đốc phủ, Đô đốc
thiêm sự, gia phong Đô đốc Phương quận công. Dòng họ Ngọ ở Thái Sơn duy
trì việc thờ cúng tổ tiên ở lăng họ Ngọ.
Trên
đất tổng Ngọ Xá cũ (nay thuộc xã Châu Minh) còn có các công trình mang
tên họ Ngọ như lăng Ngọ Khổng, chùa Ngọ Khổng, chùa Ngọ Phúc, nghè Ngọ
Phúc, đình Ngọ Phúc và đình Ngọ Xá.
Họ Ngô
Họ
Ngô cũng là một trong những họ cư trú sớm ở Bắc Giang. Dấu tích của họ
Ngô đã để lại trên địa danh “Ngô Xá” của xã Cao Xá (Tân Yên), chứng tỏ
sự tồn tại của họ Ngô trên đất Bắc Giang rất sớm.
Các
dòng họ Ngô ở Bắc Giang có : Ngô, Ngô Văn, Ngô Vĩnh, Ngô Thế, Ngô
Quang, Ngô Đình, Ngô Duy, Ngô Công... cư trú ở hầu hết 10 huyện, thị
nhưng tập trung đông ở ba huyện Việt Yên, Tân Yên
và Hiệp Hoà.
Họ
Ngô ở Việt Yên (thuộc phần đất Yên Dũng cũ) xuất hiện trên các tài liệu
sớm hơn cả. Đó là họ Ngô sinh ra Tiến sĩ Ngô Văn Cảnh, người làng Nếnh,
xã Yên Ninh, đỗ Đồng Tiến sĩ xuất thân năm 1481, làm quan trong Viện
Hàn lâm. Đương thời ông nổi tiếng giỏi thơ văn, được vua Lê Thánh Tông
cho làm hội viên của hội Tao đàn.
Bên
cạnh đất Yên Ninh lại có dòng họ Ngô ở thôn Cường Khê, xã My Điền. Dòng
họ này đã sinh ra tướng công Ngô Đạt Dụng, tước Nhượng quận công. Năm
1692 Ngô Đạt Dụng được trở về phủ chúa giữ chức Đề đốc Thần vũ, tước
Dũng quận công. Khi Ngô Đạt Dụng mất được phụng thờ ở từ chỉ thôn.
Dòng
họ Ngô ở thôn Thái Thọ, xã Quế Trạo cũ (nay thuộc xã Thái Sơn, huyện
Hiệp Hoà) có cụ tổ là Minh Nghĩa công thần Dương Quốc Công, là một vị
khai quốc công thần đã được tôn vào bậc tiên hiền của quê hương Quế
Trạo. Dòng họ Ngô này ban đầu gốc là họ Dương, vì lý do gì đó mà chuyển
sang họ Ngô. Năm 1655 có Ngô Công Mỹ làm quan trong phủ chúa Trịnh, với
các chức, tước : Chánh vương phủ, Phó vương phủ, Chưởng thái giám, Tổng
quản Kinh Bắc, Hiệp Hoà, Thái Nguyễn đẳng xứ, kiêm Tri thị nội thư, Tả
vệ môn Đĩnh quận công.
Họ
Ngô ở Ninh Định (xã Đại Thành, Hiệp Hoà) có Ngô Trang đỗ Tiến sĩ năm
1538. Họ Ngô ở Cao Lôi (thị trấn Neo, huyện Yên Dũng) có Ngô Uông đỗ
Tiến sĩ năm 1553, làm quan đến chức Tả thị lang bộ Hộ.
Họ Nguyễn
Có
khá nhiều dòng họ Nguyễn ở Bắc Giang, như Nguyễn Duy, Nguyễn Văn,
Nguyễn Đình, Nguyễn Thế, Nguyễn Xuân, Nguyễn Mạnh, Nguyễn Hữu, Nguyễn
Danh, Nguyễn Đức, Nguyễn Ngọc, Nguyễn Nhân...
Địa
bàn cư trú của họ Nguyễn Hiện nay ở khắp các làng xã trong tỉnh. Theo
điều tra văn hoá làng, có rất nhiều địa danh liên quan đến họ Nguyễn như
: thôn Nguyễn ở Mai Đình (Hiệp Hoà); ở Trung Sơn (Việt Yên); ở Việt Lập
(Tân Yên); ở Cầu Thày, An Thượng, Cương Sơn (Lục Nam)...
Các
dòng họ Nguyễn hiện còn nhà thờ tổ có họ Nguyễn ở Đông Lỗ “Nguyễn tộc
từ”; nhà thờ Nguyễn Đình Chính, Nguyễn Đình Tuân ở Mai Đình (Hiệp Hoà),
nhà thờ họ Nguyễn ở Thổ Hà (Việt Yên), họ Nguyễn ở Đức Giang...
Trong
lịch sử, các dòng họ Nguyễn đã sớm có các bậc tiền bối đỗ đạt cao và có
công với dân với nước, như họ Nguyễn ở Hoàng Vân (Hiệp Hoà) có Nguyễn
Doãn Địch đỗ Tiến sĩ năm 1529; Nguyễn Duy Năng người xã Dĩnh Uyên, tổng
Dĩnh Kế, đỗ Tiến sĩ năm 1574 sau di cư vào Thuận Hoá đổi là nguyễn Khoa;
Nguyễn Đình Chính ở Nguyễn Xá (Mai Đình) làm quan đến chức Thị nội
giám, Tư lễ giám, Tổng thái giám; Nguyễn Hoảng người Đức Thắng, đỗ Tiến
sĩ năm 1529; Nguyễn Hữu Đức đỗ Tiến sĩ năm 1592; Nguyễn Lễ Kính đỗ Tiến
sĩ năm 1475; Nguyễn Nghĩa Lập ở Yên Ninh đỗ Tiến sĩ năm 1553; Nguyễn
Nhân Kiền đỗ Tiến sĩ năm 1547; Nguyễn Nhân Trừng người thôn Ngọc Liễn,
xã Châu Minh đỗ Tiến sĩ năm 1623; Nguyễn Nhữ Tiếp, người xã Phúc Linh
(nay thuộc Hiệp Hoà), đỗ Tiến sĩ năm 1522 và có vị Tiến sĩ cuối cùng của
đất Bắc là Nguyễn Đình Tuân, người Mai Đình (Hiệp
Hoà).<O:p></O:p>
Sử
sách, bia chí cũng ghi chép về các vị họ Nguyễn quan chức như : Đô đốc
Xuân quận công Nguyễn Phúc Độ (Đông Lỗ), Nguyễn Hữu Đức (Vân Cẩm),
Nguyễn Hạnh Thông (Vân Cẩm), Nguyễn Đỉnh Tân (Xuân Đám, Yên Dũng),
Nguyễn Đức Huỳnh, Nguyễn Đức Thành (Phúc Tằng, Tăng Tiến), Nguyễn Đốc
Thực (Cường Khê, Việt Yên)... đều có đóng góp công sức, tiền của cho xã
hội.
Họ Phạm
<O:p
Họ
Phạm vốn là một họ quê ở Lam Sơn, cùng với Lê Lợi, theo Lê Lợi khởi
nghĩa đánh giặc Minh. Dòng họ này có ba đời cùng theo Lê Lợi, nếu tính
từ Phạm Đình Liêu, có bố làm Phạm Thánh, con là Phạm Đức Hoá. Cả ba đều
giúp Lê Lợi đánh giặc Minh. Phạm Đình Liêu và Phạm Đức Hoá được cử ra
Bắc đánh giặc trong trận Xương Giang. Sau ngày chiến thắng, Lê Lợi cho
Phạm Đình Liêu cùng con ở lại Kinh Bắc, phong cho là bậc Bình Ngô khai
quốc công thần, Khang quốc công. Gia đình Phạm Đình Liêu ra Bắc cư trú ở
làng Chùa, xã Đại Mãn, huyện Bảo Lộc, phủ Lạng Thương. Trong gia phả họ
có chép : “Cụ tổ là người được danh hiệu Bình Ngô khai quốc công thần.
Tặng chức Thái uý, Khang quốc công, tên là Phạm Đình Liêu; sau đó được
ban họ của nhà vua nên gọi là Lê Văn Liêu. Cụ sinh được một người con
trai làm phò mã nhà Lê; giữ chức Đô uý; tước Hoa phong hầu, tên là Phạm
Đức Hoá. Vợ của ông Phạm Đức Hoá là Thiều Dương Thái trưởng công chúa,
tên là Lê Thị Ngọc Khanh”.<O:p
Họ Thân
Dòng họ Thân có mặt ở Bắc Giang rất lâu đời và được coi như một trong những họ gốc ở Bắc Giang.
Thuỷ
tổ của họ Thân là Giáp Thừa Quý – tù trưởng Động Giáp của Châu Lạng
thời Lý (TK XI). Con của Thừa Quý đổi ra họ Thân. Đó là Thân Thiệu Thái,
cũng là tù trưởng Động Giáp được Vua Lý gả công chúa Bình Dương cho làm
phò mã. Con Thân Thiệu Thái là Thân Cảnh Phúc cũng là tù trưởng Động
Giáp lấy công chúa Thiên Thành, có công đánh giặc Tống ở thế kỷ XI.
Họ
Thân cư trú trên lưu vực sông Thương và sông Lục Nam khá đông. Địa bàn
gốc của họ ngày nay có lẽ còn lưu lại ở các địa danh “Thân” và “Kép”,
như làng Thân, làng Kép. Từ thế kỷ XIV trở đi họ Thân có mặt ở các huyện
Việt Yên, Tân Yên, Lạng Giang, Lục Nam, Yên Dũng và Lục Ngạn. Các dòng
họ Thân này ngày nay chưa tìm ra mối liên hệ lẫn nhau nên các họ đó tồn
tại độc lập bên nhau.
Trong
thời Lê Sơ, họ Thân ở Yên Ninh phát triển mạnh nên đã xuất hiện các
danh nhân khoa bảng như : Thân Nhân Trung, Thân Nhân Tín, Thân Nhân Vũ,
trong đó Thân Nhân Trung được coi một ngôi sao sáng đương thời. Ông là
Phó Nguyên suý hội Tao đàn do Vua Lê Thánh Tông sáng lập. Thời Lê Trung
hưng có Thân Công Tài, làm quan tới bậc quận công. Ông có công bảo vệ và
mở mang buôn bán ở vùng biên giới Lạng Sơn nên khi mất được thờ ở quê, ở
Lạng Sơn và một số nơi nay thuộc Trung Quốc.
Thời
kỳ khởi nghĩa Yên Thế, con em các dòng họ Thân đã góp cho phong trào
những ông đốc, ông đề, ông cai đánh Pháp rất kiên cường. Đó là các nhân
vật Thống Luận, (Thân Đức Luận), Cả Huỳnh (Thân Văn Huỳnh), Thân Văn
Tề...
Họ Trần
Thời
Trần bắt đầu từ 1226 cũng là lúc cái tên Châu Lạng, Động Giáp phai nhoà
dần. Thay thế vào đó là cái tên Bắc Giang, Lạng Giang được nhắc tới
thường xuyên hơn. Lúc ban đầu vùng đất Châu Lạng thời Lý đã được cấp
phong cho vợ chồng quan Thái sư Trần Thủ Độ làm đất Mộc Dục, gọi là đất
tắm gội. cũng có thể con cháu họ Trần đã theo đó mà về nơi đây cư trú,
mở mang cơ nghiệp, khai khẩn đất hoang để sau này duy trì việc thờ phụng
Trần Thủ Độ ở vùng Yên Dũng.
Họ
Trần ở Hoàng Mai, huyện Yên Dũng xưa (nay thuộc xã Hoàng Ninh, huyện
Việt Yên) có Trần Đăng Tuyển đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa
Canh Thìn niên hiệu Dương Hoà 6 (1640) Đời Lê Thần Tông, được bổ làm
quan đến chức Tham Tụng, Tể tướng, Binh bộ Thượng thư, tước Xuyên quận
công. Ông là người trầm nghị, đứng đắn, học thức sâu rộng, có công trong
cuộc Nam chinh. Khi mất được tặng chức Thiếu bảo.
Dòng
họ Trần ở Lương Phong, huyện Hiệp Hoà vốn cũng là dòng họ lớn. Thời Lê
Trung hưng (TK XVII - XVIII) đã có các nhân vật Trần Đình Miên, Trần
Đình Ngọc được nhân dân làng xã mến chuộng. Trần Đình Ngọc được triều
đình tin dùng ban cho tước Quận công, còn gọi là “Quận Gió”. Đền thờ và
lăng mộ của họ Trần hiện vẫn còn ở đất Lương Phong.
Trong
những năm trước Cách mạng Tháng 8-1945, một số con cháu họ Trần từ các
tỉnh khác cũng về Bắc Giang sinh sống. Họ Trần - kể cả họ gốc và họ nhập
cư - không đông và không sống tập trung.<O:p
Họ Trịnh
Họ
Trịnh sinh sống rải rác ở các huyện, thị. Riêng ở Thổ Hà, Trịnh Xá,
Đồng Bún, TP Bắc Giang, Bố Hạ sống khá tập trung và còn lưu lại tư liệu.
Họ
Trịnh ở Thổ Hà, Vân Hà vốn xưa ở đâu chưa rõ. Nhưng ở làng Vân có lập
đền thờ một vị tướng công họ Trịnh. Vị tướng công này vốn là người Thanh
Hoá ra ngoài Bắc dạy học, đến làng Vân (xã Yên Viên cũ) lập ra một thục
xá dạy học cho dân, mở mang dân trí nên khi mất dân lập đền thờ ngay
bên chùa Diên Phúc.
Gia phả họ Trịnh ở Bố Hạ chép :
“Tiên
vương bốn ngôi. Vương phủ mười bốn ngôi Á thành tổ bốn ngôi. Văn Thành
tổ bốn vị. Hoằng tỏ mười một vị. Dục tổ, Nghị tổ năm vị. Phúc thuần
công, Chiên tổ mười một vị. Dụ tổ, Yến Đô vương ba vị. Linh quận công ba
ngôi (thực thừa tự).
Trịnh Bách, Trịnh Hoảng (Duệ tổ bốn vị, Hy tổ mười bốn vị).
Nghị tổ trở xuống Thịnh vương, Đoan Nam vương, Điện Đô vương”.
....
Tập
gia phả họ Trịnh này gồm 70 trang, ghi chép các chúa, con các chúa qua
từng đời, tới năm 1945 tương đối đầy đủ. Đến đó thì dừng, lưu cất vào
cột nhà. Đến năm 2000 thì tìm thấy, mới rõ các cụ họ Trịnh gốc gác ở đâu
về Bắc Giang.
Họ Vi
Cư
trú tập trung ở ba huyện Yên Thế, Lục Ngạn và Sơn Động. Các huyện khác
tuy cũng có song tản mạn với số lượng ít. Hầu hết các dòng họ Vi ở Bắc
Giang đều thuộc dân tộc Tày, dân tộc Nùng.
Theo
gia phả họ Vi ở làng Vai, xã Kim Sơn, huyện Lục Ngạn thì cụ tổ là Hàn
Tín. Do loạn lạc, phải phiêu tán và đổi họ. Họ cho rằng chữ “Vi” là một
nửa chữ “Hàn” Hán tự. Đó là dấu hiệu để nhận nhau. Họ Vi ở làng Vai có
công trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông TK XIII, được ban danh
hiệu “Sinh vi tướng, tử vi thần”. Đền thờ chính là đền Khánh Vân (thị
trấn Chũ).
Gia
phả họ Vi ở Sơn Động lại cho biết, cụ tổ là Vi Đức Lục quê gốc ở Diễn
Châu, Nghệ An theo Lê Lợi khởi nghĩa ở Lam Sơn. Sau khi đại phá quân
Minh, được giao phó gìn giữ vùng biên giới, rồi ở lại đất An Châu, An
Lập (Sơn Động). Đền thờ tổ ở làng Chẽ, xã An Lập gọi là đền Đức Vua Ông.
Trong ngày hội làng có tổ chức tế và bơi chải diễn tích thuỷ quân đánh
bộ của quân nghĩa năm xưa. Con cháu của họ Vi này nối nhau là quận công
và làm phụ đạo ở vùng này.
Họ Vi ở Yên Thế có mấy dòng, chủ yếu từ vùng Lạng Sơn (Cao Lộc, Lục Bình...) di cư xuống sau thời kỳ có loạn giặc Cờ Đen.
Họ Vũ
Họ
Vũ cư trú ở khắp 10 huyện, thị Bắc Giang. Trong các dòng họ Vũ, chỉ có
họ Vũ ở vùng ngã ba sông Lục Nam là to hơn cả. Tổ tiên của họ Vũ này, do
loạn lạc nên có thời gian chuyển đổi thành họ Chu. Đến thời Lê - Mạc
lại lấy lại tên họ Vũ.
Dòng
họ này vốn ở Nam Chân, Nam Sơn vì yêu mến đất Tiên La nên đã cư ngụ ở
nơi đây. Kể từ đời Sầm quận công trở đi có các vị Vũ Đức Trọng, Vũ Chí
Trung, Vũ Chí Thân, Vũ Chí Vượng... đều là các bậc anh tài kế thế ở đời.
Sầm
quận công có công tu sửa chốn tổ Vĩnh Nghiêm. Vũ Đức Trọng là người có
công phù Lê dẹp Mạc được phong tước Khuông quận công, dự hàng công thần
triều Lê, hàm Thái bảo.
Vũ
Hữu Râm là con của Khuông quận công có công trong việc tòng chinh ở Cao
Bằng, Tuyên Quang được phong Trung thực tuyên lực công thần, Đặc tiến
phụ quốc thượng tướng quân...
Vũ
Chí Trung làm quan ở chức Nhập nội thị nội, Binh bộ viên ngoại lang,
sau lại thăng Hình bộ thị lang trung thị vệ sự, tước Bàn quận công.
Dòng họ Vũ này có địa danh cư trú ở Vũ Trù, Vũ Xá, Tiên La, Trạm Điền, Đan Hội... và có nhà thờ ở Tân Độ.
Họ
Vũ ở Tiên Lát (nay thuộc Tiên Sơn) có Vũ Cẩn 35 tuổi thi đỗ Đệ tam giáp
đồng Tiến sĩ xuất thân năm 1556 đời Mạc Phúc Nguyên. Sau khi thi đỗ thì
đổi tên là Vũ Ngụ, được cử đi sứ nhà Minh. Làm quan đến chức Thượng thư
bộ Lễ, tước Dũng quận công. Khi mất được tôn vinh là bậc bề tôi tiết
nghĩa.
Gia phả họ Vũ ở Đức La có chép :
“Nguyên ngày trước, cụ tổ ở xã Kỳ Lão, huyện Tam Chân, đạo Sơn Nam sinh được bốn người con trai. Mỗi người cư trú ở một phương :
Người con thứ nhất cư trú ở xứ Sơn Nam, nối đời làm công hầu.
Người con thứ hai ở xứ Sơn Tây ở triều trước không rõ sự tích như thế nào.
Người con thứ ba sống ở xứ Hải Dương, nối đời được làm quan phụ đạo.
Người con thứ tư cư trú ở xứ Kinh Bắc, miền núi non vùng Phượng Nhỡn. Ban đầu nhà ở thôn Tân Độ (thôn Bến) xã Trí Yên”.
Theo
gia phả này thì cụ thuỷ tổ ở xã Trí Yên (Yên Dũng) được phong tặng thừa
Chính sứ, ở đây cụ đã đổi sang họ Chu, lý do đổi họ vì khi ấy gặp thời
loạn lạc mà đổi tránh đi. Đây cũng là dòng họ lớn có nhiều người làm tới
bậc công hầu khanh tướng như : Sầm quận công, Chu Văn Sầm, Khuông quận
công Vũ Đức Khuông, Bật quận công Vũ Thuận Đạo, Vân quận công Vũ Hữu
Râm,... Trong các vị quận công ấy có Sầm quận công là nổi danh chống
Mạc, được vua tin dùng. Gia phả chép :
“Lúc
ông Sầm còn hàn vi phải đi buôn muối, gánh bộ bán ở Thanh Hoá. Gặp khi
quân nhà vua đi đánh giặc bị thua chạy, ông cười mà nói rằng : “Cơm vua
áo chúa đánh giặc mà bỏ chạy thì thật là hèn nhát”. Có người nghe thấy
nói đến tai vua. Vua vời vào hỏi : “Nhà ngươi có tài gì mà nói thế, có
dám đi đánh giặc không ?”. Ông nói : “Nếu nhà vua cần”. Vua tuyển ông
vào lính. Ông được phong làm ngũ trưởng, sau đi đánh giặc nhiều trận
được phong đến quận công. Ông người Cao sáu thước, diện mạo phi thường;
tướng hổ oai hổ; tiếng cao giọng lớn người người thấy ông đều sợ không
dám đối địch,
được nhà vua yêu quý, vắng mặt vua nhớ, có mặt vua sợ. Lúc này nhà Mạc
cướp ngôi vua. Nhà vua sai ông đi đánh dẹp họ Mạc, trấn thủ ở phương Bắc
thuộc địa phận Đức La, cũng là nơi quê ông. Không may bị quân Mạc đánh
thuốc độc chết”.
(Nguồn: Địa chí Bắc Giang, năm 2006)
No comments:
Post a Comment